Nhà sư chùa Vạn Thiện và câu chuyện đàn trâu…

Nhà sư chùa Vạn Thiện và câu chuyện đàn trâu.. không thay đổi màu lông. Đó là phép tu “Đốn”, phép này dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải lần hồi theo cấp bậc

Nhà sư chùa Vạn Thiện và câu chuyện đàn trâu...
Nhà sư chùa Vạn Thiện và câu chuyện đàn trâu…

Nhà thơ Quách Tấn có câu:

Khánh Hòa là xứ Trầm Hương

Non cao biển rộng người thương đi về.

Hai câu này đã trở thành ca dao của tỉnh Khánh Hòa. Non cao biển rộng là hình thế địa linh và người thương đi về là tình thương dân dã. Nhân năm Kỷ Sửu, chúng ta thử lần xem dấu vết trâu được ghi lại trên Xứ Trầm Hương như thế nào.

Trước tiên trên núi. Đó là dãy núi Đồng Bò. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là Hoàng Ngưu sơn, ở phía Đông Nam thành phố Nha Trang. Núi lập thành một dãy dài hàng trăm dặm chạy từ huyện Diên Khánh đến Nha Trang rồi vào Cam Ranh. Núi không cao, nhưng hiểm trở, chạy sát ra biển đông. Đỉnh cao nhất 978 thước, ngọn nằm sát biển cao 643 thước cây cối rậm rạp có nhiều thú dữ.

Dưới chân núi có một cánh đồng mang tên là Đồng Bò. Do đó núi có tên là Núi Đồng Bò. Thuở trước nơi này có nhiều bò hoang sinh sống nhờ cánh đồng liên thông với rừng trong núi, có nhiều cây cối rậm rạp và thú dữ tập trung về đông đúc. Bò dần dần bị tiêu diệt. Trong bầy thú dữ có một nhóm cọp chuyên săn bắt bò. Cầm đầu là một con cọp chúa sống trên vài trăm năm, to lớn dị thường và bị què hết một chân nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Sau khi bò hoang trên cánh đồng không còn đủ cung cấp thức ăn cho cọp, chúng bèn xuống làng xóm bắt gia súc và người.

Năm 1793 trấn thủ thành Diên Khánh là Nguyễn Văn Thành tướng của Gia Long được tin cọp dữ, đem quân săn bắt song không thu được kết quả. Sau đó phải nhờ vào sự cầu đảo bà Thiên Y A Na mới bẫy được hổ. Từ đó tên núi nơi bắt được hùm có tên hòn Cầu Hùm được thường xuyên nhắc đến. Hiện nay tuy vùng Đồng Bò không còn dấu vết xưa nhưng vẫn được người dân Nha Trang nhắc đến khi đi du lịch ngang qua vùng sông Lô.

Cạnh Đồng Bò còn có một vùng lịch sử: đó là Đồng Châu. Nguyên khu vực này là cánh đồng hoang vu thuộc huyện Hoa Châu trước kia và sau được nhập vào huyện Phước Điền. Thời Tự Đức (1847-1883), khi Gia Định mất, rồi 6 tỉnh miền Nam mất theo thì một số sĩ phu không đội trời chung với giặc bèn bỏ ra Khánh Hòa khai hoang lập ấp được gọi là phong trào Tỵ Địa và được người địa phương tôn xưng là “Nam Trung Nghĩa sỹ”. Cầm đầu nhóm người này là ông Nguyễn Bá Trinh.

Còn về dưới biển… thì có Vũng Trâu Nằm.

Vũng Trâu Nằm ở phía đông bắc Khánh Hòa, nằm trong vịnh Vân Phong. Đây là một vịnh rộng lớn, phía bắc có bán đảo Bàn Sơn dài gần 30 cây số làm cánh cửa che gió bấc và bán đảo Phước Hà dài trên 20 cây số làm cánh chắn gió Nam. Vịnh Vân phong là một vịnh chẳng những có giá trị về địa lý, kinh tế mà còn có nhiều thắng cảnh đẹp. Vũng Trâu nằm là một. Taị đây có một cồn đá nằm dăng ra bốn phía ở dưới mặt nước; khi thủy triều xuống thì lưng đá nhô lên xa trông như một đàn trâu nằm tắm, sóng gợn chung quanh. Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là cồn đá Ngọa Ngưu (Trâu Nằm).

 

Như vậy Xứ Trầm Hương phía bắc có Vũng Trâu nằm giỡn nước, trong vịnh Vân Phong, phương nam có núi Hoàng Ngưu và cánh Đồng Bò. Còn truyền tích trong dân gian về trâu thì có gì?

Trước tiên là câu chuyện Bà Xã Mập ở làng Phụng Cang xã Ninh Quang huyện Ninh Hòa. Bà Xã Mập một hôm ra thăm đồng trông thấy một con trâu cò (trâu có lông màu trắng) đang râm vào ruộng phá lúa. Bà nổi giận chạy đến nắm lấy đuôi trâu mà đánh. Trâu liền kéo bà nhảy xuống con suối Bàu Sấu bên cạnh là một con suối vừa sâu vừa rộng có tiếng là nhiều cá sấu vốn được coi là một nơi chốn linh thiêng. Thấy bà không về, người nhà thuê người lặn tìm song không dấu vết. Tưởng là chết rồi cả nhà lo để tang. Không ngờ bốn hôm sau bà trở về. Hỏi thăm duyên cớ. Bà chỉ đáp rằng câu chuyện không được nói ra, nếu còn muốn sống. Làng xóm và gia đình năn nỉ mấy bà cũng không hé răng.

Một hôm vì cầm lòng không được nên bà cho mời bà con làng xóm đến dự một tiệc tiễn đưa bà về bên kia thế giới sau khi nghe câu chuyện do bà kể:

Khi trâu cò bỏ chạy thì tôi định thả đuôi ra song tay lại bị dính chắc. Trâu nhảy xuống nước, tôi đành nhắm mắt chờ chết. Hai bên tai nghe vù vù gió thổi. Một lát sau mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trước một dinh thự nguy nga và được hai người lính dẫn vào một sân vườn rộng mát trồng đầy hoa thơm cỏ lạ. Một ông quan uy nghi lẫm liệt truyền lệnh cho tôi vào…

Vừa kể đến đó thì bà Xã Mập lăn ra tắt thở…

Tiếp theo là câu chuyện đàn trâu của nhà sư chùa Vạn Thiện.

Chùa ở thôn An Ninh, xã Diên An, huyện Diên Khánh. Trụ trì là sư Thiệt Vinh. Bác sĩ có người đệ tử tên Keo hiệu Thiện Khoáng quê Bình Định vào chùa xin ở chăn trâu. Chùa nuôi đến hàng trăm con trâu mà chỉ mỗi một mình thầy Keo chăn giữ. Sáng sớm lùa trâu vào ăn trong núi, chiều đến lùa trâu về mà trên lưng mỗi con trâu đều có một bó củi. Một hôm bác sĩ Thiện Khoáng cho trâu về sớm và vào bếp xem một bà lão nấu dầu chay bằng hột dầu tía. Vì kiêng cữ người lạ, nên thầy bị phạt phải đứng khuấy dầu. Không dùng cây để khuấy mà thầy Keo lại dùng đôi tay trần để khuấy dầu sôi. Việc lạ này được trình lên sư trụ trì. Từ đó thầy Keo không còn đi chăn trâu nữa mà chỉ lo học tập kệ kinh.

Trâu không người chăn, nhưng sáng nào cũng vẫn kéo nhau vào núi và chiều về vẫn chở củi trên lưng. Mọi người đều tin là ngài Keo có tài điều khiển trâu bằng tâm ý ở xa. Mấy tháng sau thì bác sĩ nhịn ăn và xin sư phụ được hoá thân. Ngoài số củi do trâu mang về bác sĩ Kheo xin người trong thôn mỗi người một bó củi. Trong số người cho có một số không vui lòng. Trước khi lên giàn hỏa, bác sĩ nguyện sẽ để lại một vật mọn tặng dân làng. Khi hỏa táng xong, người trong chùa đến nhặt xá lợi thì chỉ nhận được một chén chung cổ trong đựng một móng tay còn tươi không một chút tro bụi. Đó là kỷ vật biếu cho dân làng. Ngoài ra, còn một vài bó củi lửa không hề bén đến. Ai nấy đều biết rằng đó là củi của những người không thành tâm cúng dường. Hòa thượng bổn sư phong cho bác sĩ danh tự là Linh Phù.

Bầy trâu, sau khi bác sĩ viên tịch không còn ai trông nom, cho nên lần lượt kéo nhau vào núi và không trở về chùa nữa.

Trong câu chuyện có con trâu trắng và con trâu đen. Trâu trắng chỉ trâu thần. Còn trâu đen chỉ sinh vật được nuôi dưỡng. Điều này khiến liên tưởng đến chuyện 10 bức tranh chăn trâu của phái Đại thừa và phái Thiền tông.

Tranh Đại thừa vẽ con trâu đen, nhờ phép tu “Tiệm” mà tiến từng nấc một lên đến giác ngộ cũng như con trâu đen nhờ dìu dắt mà trở nên thuần thục và lớp da trắng lần. Còn bức tranh Thiền tông thì có khi vẽ trâu đen có khi vẽ trâu trắng. Trâu trắng là để chỉ “bạch ngưu xa” là Phật thừa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật. Con trâu của Thiền không thay đổi màu lông. Đó là phép tu “Đốn”, phép này dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “hoát nhiên” mà thành, không phải lần hồi theo cấp bậc.

Câu chuyện trâu đen, trâu trắng nơi Xứ Trầm Hương cũng mang đầy ý vị của Phật gia.

Trích từ tập Bút ký Cá Tắm Nắng của tác giả Quách Giao
Tiêu đề do phatgiao.org.vn đặt

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *