“Gửi” trâu, bò trên dãy Hoành Sơn: Khi đã xong việc ruộng nương, họ đưa đàn gia súc của mình lên dãy Hoành Sơn thả hoang rồi phó mặc cho núi rừng. Đến khi lúa chín vàng đồng, họ lại cặm cụi đi tìm
Buổi chiều oi ả của ngày hè nóng bức sau mùa gặt, trên các ngả đường quê ở xã Quảng Kim (huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) đã thấy hàng đàn gia súc chia từng tốp nhỏ men theo các con đường quê tiến vào dãy Hoành Sơn. Phía sau đoàn trâu, bò là những người dân xách nách đủ thứ đồ dùng.
Nhờ rừng trông hộ
Thấy chúng tôi hiếu kỳ, ông Chu Đức Thanh (55 tuổi; ngụ xã Quảng Kim) giải thích rằng họ đang đưa trâu, bò đi vào rừng để “gửi” nhờ trông hộ.
Lân la hỏi chuyện, chúng tôi mới biết cách làm lạ lùng này của người dân, vì không phải chăn thả nhưng vẫn quản lý chặt như ở các vùng khác, mà là như “cá cược với Trời” do đàn trâu, bò được “gửi” tháng này qua tháng khác trong rừng sâu ngút ngàn.
Đàn bò nhà ông Thanh có 5 con. Tay ông cầm roi điều khiển hướng đi của đàn bò. Thi thoảng, miệng ông hô to: “ùi ùi” (nghĩa là đi), “hò hò” (nghĩa là dừng lại). Những câu này là khẩu lệnh mà bà con nơi đây vẫn dùng để chỉnh đường đi, nước bước của đàn gia súc nhà mình.
Ông Chu Đức Thanh đang “gửi” đàn trâu trên dãy Hoành Sơn
Vượt chừng hơn 5 km đường rừng đến chân đèo Ngang (ranh giới giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) của dãy Hoành Sơn, ông Thanh cho đàn bò dừng lại uống nước. “Trâu, bò thả trên rừng này như kiểu cá cược vậy. Có nhiều trường hợp đàn gia súc vừa mới lên đến rừng hai tháng thì chết cả đàn. Chúng chết vì rét, bệnh tật… Cũng có những đàn sinh ra đã ở rừng, quen với khí hậu trên này nên béo tròn quanh năm” – ông Thanh nói.
Đàn bò của ông Thanh đi liên tục gần nửa ngày đường nên tỏ ra rất mệt. Khi gặp một con suối, chúng vội chia nhau ra từng vị trí đắm mình trong dòng nước. Chúng quật đuôi đành đạch, mũi cứ phì ra như những con hà mã khát bùn.
Chúng tôi theo đoàn người cuốc bộ hơn 7 km đường rừng thì đến địa điểm mà những người nông dân chọn làm nơi gửi “cả cơ nghiệp”. Trước mắt chúng tôi là một vùng núi mênh mông, dường như lâu lắm không có dấu chân người lui tới. Thi thoảng nghe tiếng động loạt xoạt. Đấy là khi những con trâu, bò luồn rừng đi tìm nguồn thức ăn, nước uống.
Trâu, bò của người dân “gửi” lên rừng quanh năm trên dãy Hoành Sơn
Vượt thêm 2 km đường núi, men theo con đường lởm chởm đá tai mèo, chúng tôi lên đến đỉnh Hoành Sơn. Đứng trên đỉnh núi, phóng tầm mắt ra các triền núi đầy cỏ tranh xung quanh, thấy trâu, bò chắc phải cả trăm con của người dân từ các xã quanh vùng, như: Quảng Kim, Quảng Hợp, Quảng Châu, Quảng Đông. Những đàn trâu say sưa gặm cỏ, như được trở về với chính ngôi nhà của mình. Đỉnh núi này thoắt nắng, thoắt mưa như bốn mùa gối đầu nhau trong một ngày vậy.
Theo người dân nơi đây, đợt gửi trâu hằng năm sẽ bắt đầu vào cuối tháng 3 âm lịch. Khi đó, vụ mùa tạm thời kết thúc. Đến tháng 8, đàn trâu mới rời rừng già về với chủ để cày cấy. Sau vụ mùa tháng 10, họ lại gửi trâu vào rừng để “ăn Tết”. Trong suốt những ngày tháng dài đằng đẵng, đàn trâu lang thang qua các dãy núi sâu để kiếm thức ăn và sống đời hoang dã.
Vô số biến cố
Việc “gửi” đàn gia súc của người dân thoáng nghe có phần đơn giản, bởi nó giúp bà con nông dân bớt vất vả vì phải bỏ công chăm sóc, nuôi dưỡng. Nhưng vì phương pháp chăn thả tự nhiên này đã khiến đàn gia súc bị “rừng hóa” và trải qua vô số biến cố may rủi và “đầu cơ nghiệp” có thể không quay về được với chủ nữa.
Ông Từ Văn Nghị (48 tuổi, ở xã Quảng Kim) kể cách đây 5 năm, trong một đợt dịch bệnh, trâu, bò thả trên rừng nối nhau chết từng đàn. Khi bà con lên rừng tìm, ai cũng ngồi sụp xuống đất khóc ròng vì trâu, bò chết hàng loạt. Nhìn xác trâu, bò chết, lòng quặn thắt. Nhiều người vì thế lâm vào cảnh nợ nần, tán gia bại sản.
Theo ông Nghị, trước đây đàn trâu của ông có 7 con, cũng bằng phương pháp “gửi” cho rừng mà chết dần, nay chỉ còn 3 con.
“Năm đó, tui phải đi gánh thịt trâu, bò thường xuyên. Cứ sáng ra là có người đến kêu nhìn thấy trâu chết. Có nhiều đàn chết đến 3 năm sau mới tìm thấy, chỉ còn lại từng đống xương. Năm ấy, tiếc nhất là con trâu nghé mới được năm rưỡi tuổi, béo đẹp lắm!” – ông Nghị ngậm ngùi.
Việc “gửi” trâu, bò vào rừng cũng có nhiều chuyện đau lòng. Vì khi trâu, bò được đưa vào rừng, bản tính hoang dã của chúng sẽ được đánh thức, nên nhiều khi chúng trở thành mối hiểm họa cho chính người chủ. Có người sau mấy tháng đi tìm lại đàn trâu, đã bị chúng lao vào húc bị thương, nhiều người thấy trâu của mình mà phải bỏ chạy thục mạng. Thậm chí, có người phải bỏ mạng giữa rừng vì bị trâu húc.
Ông Thanh kể lo đàn trâu, bò bị rừng hóa là một chuyện; còn lo nữa là nhiều kẻ xấu đã lợi dụng việc này để vào bẫy, bắt trâu giết thịt. Ngày trước, chuyện mất trâu, bò xảy ra như “cơm bữa”, nay mọi người năng vào rừng trông nom hơn nên việc mất trộm đã ít xảy ra.
Thắc mắc việc “gửi” trâu, bò vào rừng lắm rủi ro, sao người dân lại chọn cách này? Nhiều người dân cho biết đây là tập quán lâu nay, vì trong rừng có nhiều cỏ tranh. Với lại, hiện giờ ruộng nương ngày càng hẹp dần. Mùa hè đồng khô, cỏ chết nên nguồn thức ăn hạn hẹp, phải “gửi” trâu, bò vào rừng đỡ tốn công chăm sóc. Khi đến mùa vụ, mùa rét lại tìm về chăm bẵm. Thi thoảng 1-2 tháng, người dân lại lên rừng thăm dò để nắm bắt tình hình của chúng.
Nhưng ngoài rủi ro thì cũng có cái may, vì sau khi “gửi” trâu, bò cho núi rừng vài tháng, khi lùa về lại thấy có thêm vài con nghé. Có gia đình nhờ vậy mà dần dần xây được nhà, sắm xe máy.
Bẫy cũng rất khó
Những đàn trâu, bò sống lâu năm trên rừng, dần sinh đàn đẻ lứa. Không ít người chủ dù biết đó là trâu, bò nhà mình nhưng không làm cách nào để lùa chúng trở về lại nhà, phải thuê thợ bẫy.
Thợ bẫy lấy tiền công mỗi con trâu có khi lên tới 1 triệu đồng. Anh Phan Văn Bình, ngụ xã Quảng Hợp, kể do chăn thả ở rừng cả năm trời nên anh bất lực trước 4 con bò của nhà mình đã bị “rừng hóa”. Dù đã thử qua nhiều cách nhưng không tài nào bắt về được, đành phải thuê thợ bẫy. Khi bẫy được thì chúng đều bị thương nặng, buộc phải gọi họ hàng, người quen lên rừng sâu để thịt bò, mang về bán.
Ông Đàm Văn Đô (63 tuổi, ngụ xã Quảng Châu) và đội săn của ông là một trong những nhóm thợ bẫy “gạo cội” của người dân vùng này. Ông Đô kể những đàn trâu, bò sống ở rừng lâu năm cứ thấy người là lao như tên lửa, không kể bụi rậm, nên rất khó để đưa chúng về được. Ông lanh lợi nên nhận bắt giùm cho các chủ trâu, bò khi họ cần. Công việc này gặp vô số nguy hiểm, rất vất vả, nhưng trời phú cho sức khỏe nên cứ làm.
Nhóm thợ bẫy đang xử lý con bò đã bị “rừng hóa”
Trưa nắng gắt, ông Đô cùng đội thợ săn gồm 3 thanh niên lực lưỡng, tranh thủ ăn vội nắm cơm đùm, rồi chuẩn bị dây thừng, gậy, dao để “bẫy” một đàn bò.
“Tui bẫy ở đây được 10 năm nay rồi. Hiện trên vùng rừng này còn khoảng trên 100 con trâu, bò thuộc dạng “rừng hóa”. Những con này thấy người là lao tới để húc, hai mắt xanh lè” – ông Đô nói.
Theo ông Đô, việc bẫy đàn trâu bò rất khó, đặc biệt giữa địa hình rừng núi hiểm trở. Khi giăng bẫy thành công, ông cùng nhóm thanh niên dùng gậy gộc chiến đấu, lùa chúng vào nơi đã “bày binh bố trận” mới hy vọng bắt được. Khi chúng dính bẫy thì đặt dây thòng lọng quàng cổ, trói chân bắt từng con. Thoạt nghe có vẻ đơn giản, nhưng những người thợ săn nói nếu không nhanh trí, quyết liệt và gan lì thì sẽ dễ bị trâu húc hoặc giẫm lên chân, rất nguy hiểm.
Trời chập choạng tối. Từng nhóm người tản ra ngắm nghía đàn trâu, bò của mình, có người vuốt ve chúng một lát rồi về, để cho chúng quen hơi chủ. Có một điều đặc biệt, dù không hề làm dấu nhưng những người chủ nơi đây không bao giờ nhận nhầm trâu, bò của nhau, giữa hàng trăm con hao hao gặm cỏ giữa núi rừng. Từ xa, họ đã chỉ ra đàn trâu, bò của mình, rất chính xác.
Nguy cơ xảy ra dịch bệnh rất cao
Ông Đàm Xuân Vinh, Chủ tịch UBND xã Quảng Châu, cho hay tình trạng thả rong trâu, bò trong rừng của người dân vùng này đã tồn tại từ bao đời nay. Những năm gần đây, chính quyền địa phương thường xuyên tuyên truyền, vận động bà con làm chuồng trại chăn nuôi, tiêm phòng đầy đủ để phát triển đàn trâu, bò một cách bền vững. Bởi trâu, bò được thả rông trong rừng đa số là loại chất lượng thấp và giá trị không cao. Không những thế, chăn nuôi theo cách này thì nguy cơ xảy ra dịch bệnh rất cao, vì đàn trâu, bò không được tiêm phòng đầy đủ. Cùng với đó, việc chăn thả hoang dã có lúc gây nguy hiểm cho chính người chủ.