Tết “thời trâu cày”

Thế là một mùa Xuân nữa lại về.
Vẫn như năm ngoái, vẫn như Tết cũ, vẫn như những mùa Xuân xưa… Và ta, dù có bao nhiêu tuổi vẫn đứng giữa một mùa Xuân chứa chan, háo hức, huyền diệu và vĩnh hằng. Ta say đắm, ta mơ mộng và nghĩ về những gì đẹp đẽ của đời ta, của cuộc đời này.
Mồng ba… Tết trâu
Tôi tuổi Tân Sửu, Tết năm nay cũng là năm Tân Sửu, nó gợi cho tôi bao điều suy nghĩ. Người xưa ở ĐBSCL quan niệm “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Sách cổ ghi rằng từ thế kỷ VI, nền văn minh lúa nước Việt Nam đã khai mở và phát triển nhảy vọt. Nông dân lúc ấy đã biết thuần hóa trâu và sử dụng cho việc cày bừa. 1.000 năm sau, người Việt tiến hành mở cõi phương Nam bằng việc khẩn hoang phát triển nông nghiệp. Khi ấy, con trâu trở thành sức cày kéo chủ yếu.
Người xưa bảo “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy” nhưng ở miệt Hậu Giang còn một cái Tết nữa: Tết trâu. Tết trâu cũng diễn ra vào mồng ba và được tổ chức rất long trọng. Người ta đặt hương án cạnh chuồng trâu rồi bày hoa quả, bánh trái cúng bái. Trâu được cho ăn bánh tét, được lì xì tiền mừng tuổi. Cái nếp ấy chứng tỏ sự hàm ơn với trâu và thừa nhận vai trò chủ yếu của chúng trong cuộc sống khẩn hoang lập ấp ở xứ này.
Mùa Xuân Tân Sửu đang về, đó là lý do ta nghĩ đến những cái Tết “thời trâu cày”. “Thời trâu cày” vàng son ở ĐBSCL có lẽ là từ thập niên 1970 trở về trước, bởi vài năm sau đã có lác đác những chiếc máy cày nhập về làm lu mờ vai trò kéo cày của trâu.
Khi ấy tôi khoảng 10 tuổi – độ tuổi nhớ rất lâu những gì diễn ra xung quanh. Trong ký ức của tôi, đó là những mùa Xuân bom pháo đầy trời, sống chết trong chớp mắt. Việc làm ăn của nông dân thì lạc hậu nên làm ra hạt lúa thật “trần ai khoai củ”. Song, người ta vẫn ăn Tết, vui Tết. Và, những cái Tết “thời trâu cày” là Tết “cây nhà lá vườn” như người miệt Hậu Giang xưa thường nói.
Cây nhà lá vườn
Hậu Giang là tên gọi cũ vào thế kỷ XIX của vùng đất tính từ tả ngạn sông Cửu Long xuống mũi Cà Mau. Đây cũng là vùng khai mở sau cùng trên bản đồ Việt Nam. Có lẽ vì thế nên dấu ấn thời khẩn hoang vẫn còn in đậm trong tính cách, nếp sống của người dân nơi này.
Ngày xưa, đa số người từ mạn ngoài vào đây đều nghèo khó. Họ đến vùng đất mới rồi tự trồng tỉa, đánh bắt sinh sống trước khi có chợ búa để mua sắm. Mặt khác, họ sống dựa vào thiên nhiên, mùa nào thức ấy, từ đó hình thành nếp sống “cây nhà lá vườn”. Nếp sống ấy thể hiện rất rõ trong các ngày Tết.
Nhiều gia đình nghèo, quanh năm thiếu trước hụt sau, nhà lá cất tạm bợ trên bờ kinh nhưng Tết là dịp quan trọng bậc nhất trong năm nên họ ý thức chuẩn bị từ mấy tháng trước qua việc nuôi gà vịt, trồng cây trái, trữ củi đuốc… Đến 23 tháng chạp cúng đưa ông Táo về trời, người ta bỏ hết việc đồng áng để về nhà lo Tết.
Đầu tiên là sửa sang, trang hoàng nhà cửa. Mùng mền, quần áo, vật dụng gia đình được giặt giũ, chùi rửa sạch sẽ, với quan niệm năm mới mà nhà cửa mới mẻ sẽ có sự đổi mới, thịnh vượng. Sau đó, người ta tát đìa, cá nhỏ làm khô, cá to rọng lại, nếu còn thừa thì mang ra chợ bán để kiếm thêm tiền đi chợ Tết. Đi chợ Tết là để mua những thứ cần thiết mà mình không làm ra được, còn những thứ phục vụ cúng kiếng, vui chơi thì đã có sẵn.
25 tháng chạp, làm mâm cơm cúng ông bà xong là cánh phụ nữ đi chẻ dây, rọc lá chuối phơi rồi lựa đậu, nếp đem ngâm và xay bột để chuẩn bị làm bánh Tết. Các bà, các cô còn rủ nhau “đổi công”, luân phiên đến từng nhà gói bánh tét, làm bánh mứt. Không khí rộn ràng, tiếng cười giòn tan trong chái bếp nhà quê.
Bánh Tết miệt Hậu Giang rất phong phú và cũng rất ngon, bởi nếp sinh hoạt Tết được hình thành hàng trăm năm. Trong quá trình trăm năm ấy, người ta học hỏi, đúc kết để thế hệ này truyền cho thế hệ khác. Đó cũng là cách các bà mẹ quê dạy con gái về phẩm hạnh của phụ nữ mà không cần lớp nữ công gia chánh nào cả.
Đến 28 Tết, nhà nào đó trong xóm làm heo “chia lúa” và láng giềng sẽ được mời ăn một bữa cháo lòng vào 3 giờ khuya. Hừng sáng 29 Tết, họ cùng nhau nhận thịt – cứ mỗi ký là một giạ lúa, được trả vào mùa tới. Người ta mang thịt về để làm nhân bánh tét, chuẩn bị cỗ cúng rước ông bà 30 Tết và quan trọng là để nấu nồi thịt kho hột vịt không thể thiếu của mỗi gia đình.
29 Tết là ngày người dân miệt Hậu Giang đồng loạt trưng bàn thờ. Vùng Hậu Giang không có nhà thờ họ mà chủ yếu gia đình, dòng tộc phân công nhau thờ phụng người đã khuất. Nông dân Hậu Giang coi chuyện trưng bàn thờ dịp Tết là việc quan trọng. Người khá giả chưng cặp dưa to, người nghèo hơn chưng cặp dưa nhỏ, người không tiền thì ra vườn nhà hái dừa tươi, mãng cầu, chuối… chưng lên. Trên bàn thờ, họ còn chưng các loại bánh trái tự làm, với quan niệm càng nhiều thì gia chủ thể hiện được sự hiếu hạnh và gia đình sẽ sung túc trong năm mới.
Chiều 30 Tết, cả làng đồng loạt nấu bánh tét. Trong đêm trừ tịch, ai có ra đồng mà ngó về làng mình sẽ thấy ánh lửa bập bùng khắp nơi. Quanh bếp lửa ngoài trời ấy có những phụ nữ thức canh nồi bánh, có những lũ trẻ con thèm bánh trái nằm lăn lóc trên chiếc đệm nghe mẹ kể chuyện đời xưa. Để rồi khi lớn lên và đi xa, chúng luôn mang theo đến cuối hành trình của đời mình cái đêm giao thừa nằm chờ bánh chín trong không gian có hương bánh tét nồng nàn đê mê…
Mâm cỗ cúng 30 Tết rước ông bà được người Hậu Giang làm rất tươm tất, thực phẩm chủ yếu từ nguồn tự cung tự cấp. 30 Tết có thể nói là ngày sôi động nhất của năm cũ để đón rước năm mới. Rất nhiều nơi, khi cúng thì gia chủ tự nấu nướng và hành lễ nhưng cúng xong thì đó là bữa tiệc của làng xóm. Người ta đi thành đoàn đến hết nhà này tới nhà khác, cứ nhậu mỗi nhà vài ly. Đi theo đoàn ấy có nhóm múa lân, có người biết đờn ca vọng cổ và xóm làng cứ tưng bừng từ sáng đến giao thừa.
Đến giao thừa thì ai cũng lo về nhà lạy trả nghĩa ông bà vào thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Đó là lúc cả nhà tắm gội sạch sẽ, thay quần áo mới, dọn bánh mứt, trà rượu và lên nhang đèn rồi lạy mừng tuổi ông bà. Đây là một cổ lệ được duy trì gần như tuyệt đối ở các xóm làng miệt Hậu Giang.
Sáng mồng một Tết, người ta ra đường đi thắp nhang mừng tuổi nhà dòng họ, láng giềng. Đây là một cuộc viếng thăm quy mô lớn, anh đến nhà tôi, tôi đến nhà anh rồi nhậu nhẹt và chúc nhau “Năm mới an khang thịnh vượng”…
“Đặc sản” văn hóa

Giờ đây, kinh tế miệt Hậu Giang đã phát triển, đời sống hiện đại ồ ạt xâm nhập, trong đó có cả những luồng văn hóa xa xôi. Song, khi Tết về thì làng quê vẫn lồ lộ phong vị “cây nhà lá vườn”. Nếp làm bánh, tục lạy ông bà, thăm viếng nhau… vẫn được duy trì đến nay. Đây là sức mạnh của văn hóa và văn hóa Tết của miệt Hậu Giang, cũng có thể nói là một “đặc sản” trong văn hóa Tết vô cùng phong phú của người Việt.

Ảnh đầu bài: Hoàng Triều

PHAN TRUNG NGHĨA. https://baogialai.com.vn/ Ảnh: Lê Trọng Khang (NLĐO)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *