Trâu, một trong những loài vật thân thuộc nhất với người dân Việt Nam, gắn liền với sự cần mẫn, một cuộc sống thanh bình. Và một điều không mấy ai biết: trâu cũng có nhiều loài nguy cấp, quý, hiếm rất cần được bảo tồn …
Loài có kích thước cơ thể nhỏ nhất: Trâu rừng nhỏ và trâu núi
Đầu tiên phải kể đến trâu rừng nhỏ (tên khoa học là Bubalus depressicornis). Với tên gọi trâu rừng nhỏ, loài trâu này có thân hình nhỏ như nai và có khuôn mặt gần giống bò. Trâu rừng nhỏ phân bố trong khu rừng nhiệt đới và đầm lầy trên đảo Sulawesi thuộc Indonesia với trọng lượng 150–300 kg.
Trâu rừng nhỏ có chiều cao và chiều dài thấp nhất: cá thể trưởng thành có chiều cao vai trung bình là 86cm và chiều dài thân tối đa là 180cm. Sừng của cá thể trưởng thành có hình tam giác, dẹt và nhăn nheo. Sừng bắt đầu ở trán và hướng chéo về phía sau. Cá thể đực có sừng dài trung bình 30cm, và con cái có sừng dài trung bình 25cm.
Tuy nhiên, đây cũng là lợi thế khi trâu rừng nhỏ có lao xuyên qua nhiều khu rừng rậm một cách nhanh chóng và không bị vướng.
Trái ngược với nhiều loài trâu khác, trâu rừng nhỏ thường sống đơn lẻ hoặc theo từng cặp (chủ yếu là cá thể mẹ và con). Chúng chỉ sống theo bầy đàn (tối đa là năm cá thể) trong giai đoạn sinh đẻ.
Tuổi thọ trung bình của trâu rừng nhỏ khoảng 20 năm. Giữa cá thể trưởng thành và cá thể non có sự khác biệt rõ rệt về bộ da: cá thể trưởng thành có bộ da màu đen tuyền trái ngược với bộ da màu vàng nhẹ của cá thể non.
Thuộc giống trâu nước, trâu rừng nhỏ thích ăn thực vật thủy sinh, dương xỉ, cỏ, cây non, quả rụng, cọ và gừng. Đặc biệt, do vùng phân bố là các quần đảo, trâu rừng nhỏ rất thích uống nước biển. Nhiều nhà khoa học giải thích tập tính này để đáp ứng nhu cầu khoáng chất khi vùng phân bố không có muối hoặc nước suối khoáng. Cũng do vùng phân bố là đảo nên trâu rừng nhỏ hầu như không có đối thủ cạnh tranh ngoại trừ một số trường hợp trăn tấn công các cá thể nhỏ.
Trâu rừng nhỏ có nguy cơ tuyệt chủng từ những năm 1960 và quần thể tự nhiên tiếp tục suy giảm do mất sinh cảnh và nạn săn bắn bất hợp pháp để lấy da, sừng và thịt. Thống kê cho thấy trâu rừng nhỏ chỉ còn khoảng 5.000 cá thể hoang dã và khoảng 100 cá thể được nuôi dưỡng tại các vườn thú.
Một số nhóm người đã hình thành việc đi săn trâu rừng nhỏ với hình thức săn bắn giải trí và làm mẫu vật lưu niệm. Với tình trạng trên, trâu rừng nhỏ đã được đưa vào Phụ lục I CITES – Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Trâu rừng nhỏ hiện xuất hiện ở Khu bảo tồn Tanjung Peropa và Tanjung Amolengo (phía Đông Nam Sulawesi).
Cũng có các đặc điểm tương tự như trâu rừng nhỏ, trâu núi (tên khoa học là Bubalus quarlesi) có phân bố ở đảo Sulawesi (Indonesia), nơi chỉ có mùa mưa và mùa khô. Trong các loài trâu, trâu núi là loài nhỏ nhất: Cơ thể tròn và hình thùng, chân thon, chiều dài cơ thể khoảng 150 cm và chiều cao vai thường là 70 cm. Tuổi thọ của loài này cũng chỉ đạt 20 năm.
Do tầm vóc nhỏ và chỉ nặng từ 150 – 300kg, trâu núi có hình dáng giống hươu và có một lớp lông len màu nâu sẫm hoặc đen, nhưng thay đổi từ tháng 2 đến tháng 4 sau khi chúng thay lông. Sau khi thay lông, lông tơ của con vật bị rụng đi và xuất hiện các đốm sáng trên đầu, cổ và các chi. Đầu phát triển các đốm trắng ở mỗi bên má, trong khi mặt trước của cổ phát triển một đốm sáng hình lưỡi liềm. Các đốm sáng cũng phát triển ngay trên móng guốc. Phần lông trên cổ trở nên ngắn hơn, trong khi những sợi lông dài vẫn còn trên cơ thể. Sừng của trâu núi phẳng ở phía trước, nhưng có hình tam giác từ phần giữa đến phần cuối.
Giống như các loài trâu rừng khác, trâu núi thích tắm trong các vũng nước hoặc bùn để tận hưởng muối khoáng. Trâu núi cũng rất thích uống nước biển.
Trâu núi sinh sống trong rừng nhiệt đới nguyên sinh, thường là trong các cảnh quan đồi núi ở độ cao từ 1.000 đến 2.300 mét so với mực nước biển. Cũng giống như trâu rừng nhỏ, trâu núi sống đơn độc hoặc chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản và hiếm khi tạo thành bầy đàn. Chúng chỉ hình thành bầy đàn khi một con cái sắp sinh.
Với vùng phân bố ở các khu rừng nguyên sinh, thức ăn ưa thích của trâu núi chính là cây cọ, dương xỉ, gừng, cỏ và trái cây. Thống kê khoa học cho thấy quần thể trâu núi ngày càng suy giảm và chỉ còn khoảng 3.000 – 5.000 cá thể do các tác động của mất sinh cảnh, săn bắn từ những năm 1900. Do đó, trâu núi đã được đưa vào Phụ lục I CITES – Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Indonesia đã thành lập ba khu bảo tồn gồm Vườn quốc gia Lore Lindu, Bogani Nani-Wartabone và Khu bảo tồn thiên nhiên Tanjung Peropa ở Sulawesi để bảo tồn trâu núi.
Loài có số lượng ít nhất: Trâu rừng Philippines
Đây là loài đặc hữu trên đảo Mindoro, Philippines và là loài trâu bò đặc hữu duy nhất tại Philippines. Trâu rừng Philippines (tên khoa học là Bubalus mindorensis) được giới hạn nghiêm ngặt trong ba khu bảo tồn thiên nhiên tại đảo Mindoro ở độ cao từ 300 đến 1.000m .
Trâu rừng Philippines có cặp sừng thẳng và cơ thể nhỏ, chiều cao đến vai khoảng 106cm, chiều dài thân là 220cm. Trọng lượng cơ thể tối đa đạt 300kg. Cá thể non có mầu nâu đỏ, chân nâu sẫm trong khi cá thể trưởng thành có mầu nâu sẫm hoặc đen, vòng đời cũng chỉ đạt 20 năm. Sừng của cá thể đực dày hơn, dài hơn, phẳng hơn và gần nhau hơn so với sừng của cá thể cái. Chiều dài sừng từ 35 đến 43 cm.
Cũng giống như trâu rừng nhỏ, trâu rừng Philippines cũng sống đơn độc và chỉ gắn kết nhau trong mùa sinh sản. Trâu rừng Philippines có tuổi đời 28 năm. Đặc biệt loài thú móng guốc này có khả năng đánh hơi và nghe rất nhạy bèn cho dù thị lực rất kém. Loài trâu này ăn các loại cỏ và măng, không có đối thủ cạnh tranh ngoại trừ con người.
Số lượng trâu rừng Philippines đã giảm từ khoảng 10.000 cá thể (năm 1900) xuống chỉ còn 200 cá thể vào thời điểm hiện tại. Có thể khẳng định đây là loài thú có số lượng cá thể ít nhất trên thế giới và đã được cộng đồng quốc tế bảo vệ ở mức cao nhất: thuộc Phụ lục I CITES – Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại.
Do bị ảnh hưởng bởi các hoạt động săn bắn để lấy thịt và giải trí, trâu rừng Philippines đã được pháp luật Philippines bảo vệ từ năm 1963 và Trâu rừng Philippines hiện chỉ còn xuất hiện ở Vườn quốc gia Mount Iglit-Baco, Mount Aruyan và Khu bảo tồn thiên nhiên Mount Calavite Tamaraw.
Loài đoản thọ nhất: Trâu rừng Tây Tạng
Trâu rừng Tây Tạng (tên khoa học là Budorcas taxicolor) có vóc dáng nửa dê nửa trâu bò. Loài này có phân bố ở các vùng núi đá cao đến các thung lũng có rừng xen kẻ ở đông Tây Tạng, Sikkim, Bhutan, bắc Assam (Ấn Độ), bắc Myanmar, miền Trung và miền Nam Trung Quốc ở độ cao từ 1.000 đến 4.250m.
Chiều dài cơ thể của cá thể đực trưởng thành từ 210 đến 220 cm, và cá thể cái khoảng 170 cm. Đuôi dài tới khoảng 15 cm, và thường ẩn dưới lớp lông dày, dài và xù xì. Bộ lông có màu vàng trắng đến vàng vàng đến nâu đỏ, và có một sọc sẫm ở lưng. Con đực phát triển để đứng khoảng 120 cm ở vai, trong khi con cái là khoảng 105 cm. Sừng xuất hiện ở cả hai giới có thể dài tới 64 cm. Chúng “có gân ngang” và bắt đầu “gần đường giữa của đầu, đột ngột quay ra ngoài, sau đó vuốt ngược và hướng lên trên” (Nowak 1999, tr.1215). Chân ngắn và có móng guốc hai ngón to và khỏe với cựa rất phát triển. Loài có tuổi thọ ngắn nhất với 15,8 năm.
Khác với các loài trâu ở trên, trâu rừng Tây Tạng có tính bầy đàn rất cao lên đến 300 cá thể Loài này sống thành từng đàn lớn lên đến 300 cá thể vào mùa hè và lên đến 20 thành viên trong những tháng mùa đông. Mặc dù thường di chuyển rất chậm, nhưng trâu rừng Tây Tạng cũng có khả năng nhảy nhanh từ đá này sang đá khác trên những con dốc lớn. Nó dành phần lớn thời gian trong ngày trong thảm thực vật dày, chỉ nổi lên để kiếm ăn. Trâu rừng Tây Tạng còn có một tập tính rất đặc biệt: di cư theo mùa từ các vùng cao vào mùa hè xuống các vùng thấp hơn vào mùa đông để tìm nguồn muối khoáng. Cỏ là thức ăn ưa thích của trâu rừng Tây Tạng và chúng thường kiếm ăn vào sáng sớm hoặc chiều mát.
Với quần thể dao động từ 7.000 đến 12.000 cá thể, trâu rừng Tây Tạng có nguy cơ bị tuyệt chủng do bị săn bắt quá mức và môi trường sống bị phá hủy. Loài này cũng thường xuyên bị gấu và sói tấn công. Hiện trâu rừng Tây Tạng thuộc Phụ lục II CITES – Hạn chế buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại.
Loài có cặp sừng lớn nhất: Trâu rừng châu Á
Trâu rừng (tên khoa học Bubalus arnee) hoặc còn gọi là trâu rừng châu Á dù chưa được xếp ở mức nguy cấp (chỉ quần thể trâu rừng ở Nepal thuộc Phụ lục III CITES) nhưng đang dần suy giảm quần thể với 4.000 cá thể hiện nay.
Trâu rừng chính là tổ tiên của trâu nhà và là loài trâu lớn nhất thế giới, có trọng lượng lớn nhất, lên đến 1.200kg và cao nhất, lên đến 1,9m (chỉ thua bò tót). Đây cũng là loài bản địa của Đông Nam Á. Trâu rừng gắn liền với sự sẵn có của nước: trong lịch sử, môi trường sống ưa thích của chúng là đồng cỏ phù sa trũng thấp và xung quanh chúng, với những khu rừng ven sông và rừng cây cũng được sử dụng.
Ở Đông Dương, loài này thường xuyên lui tới những vùng đất thấp có rừng rụng lá và có mùa khô rõ rệt, nơi chúng dường như sử dụng các vũng và đầm lầy nhỏ, ngoài các sông chảy vĩnh viễn. Những con vật nuôi thả rông vẫn tiếp tục sống như vậy ngày nay; ở những khu vực như vậy trâu rút lui đến vùng phụ cận của các vùng nước lớn lâu dài hơn trong thời gian cao điểm của mùa khô, nhưng di chuyển rộng rãi qua rừng vào các thời điểm khác trong năm. Do đó, rất khó phân biệt giữa trâu rừng và trâu nhà.
Trâu rừng thường xuất hiện ở gần các vùng nước như sông mở, đầm lầy và hồ theo mùa, thường dành phần lớn thời gian trong ngày để chìm trong nước bùn. Trâu rừng có cặp sừng lớn nhất so với bất kỳ loài gia súc hoang dã nào, độ xòe của chúng có thể lên đến 2 mét (tức là khoảng cách giữa mép ngoài cong của hai sừng).
Trâu rừng có thể sống cả ngày và đêm. Thông thường, trâu rừng sống bầy đàn lên đến 100 cá thể với con cái đứng đầu. Những cá thể đực lớn thường sống đơn độc. Loài này thể hiện một hệ thống giao phối đa chủng loại, với những con cái thường sinh con cái duy nhất, mặc dù có thể sinh đôi. Nó là loài sinh sản theo mùa trong hầu hết phạm vi của nó, thường vào tháng 10 và tháng 11, tuy nhiên, một số quần thể sinh sản quanh năm. Tuổi thọ tối đa được biết là 25 năm trong tự nhiên.
Thức ăn ưa thích của trâu rừng là cỏ mọc sẵn, các loại thảo mộc, trái cây và vỏ cây. Các mối đe dọa quan trọng nhất đối với trâu rừng chính là giao phối với trâu nhà, săn bắn, suy thoái môi trường sống, dịch bệnh và ký sinh trùng (lây truyền từ vật nuôi trong nhà). Trâu rừng cũng thường xuyên cạnh tranh với nhau để giành thức ăn và nước.
Tại một số nước Đông Nam Á, trâu rừng được quan tâm bảo vệ: là loài thuộc Danh mục các loài động vật hoang dã cần bảo tồn ở Thái Lan, thuộc Danh mục các loài động vật hoang dã cần bảo vệ ở Myanmar.
Loài sống nơi cao nhất và có tính cộng đồng nhất: Trâu rừng châu Phi
Trâu rừng châu Phi (tên khoa học là Syncerus caffer) có phân bố ở hầu khắp các nước châu Phi với tổng đàn lên đến 900.000 cá thể nhưng tập trung nhiều nhất ở Nam Phi ở độ cao hơn 4.000m. Nơi sống ưa thích của trâu rừng châu Phi cũng là các vùng rừng nhiệt đới với lượng mưa hàng năm từ 1.500mm trở lên. Đây cũng là loài có cùng phân bố rất rộng, lên đến hơn 1.000 km2.
Trâu rừng châu Phi là loài động vật móng guốc rất lớn, có móng đều, có đặc điểm là cơ thể chắc nịch và sừng nặng. Sừng có ở cả hai giới và chúng không có gờ. Bên trên các móng tròn của chúng có các vảy sương. Cá thể đực có một bướu vừa qua cái cổ dày của chúng và có thể có những nếp da đầy lông và một lớp diềm dưới cằm. Sừng của cá thể cái tương đối mảnh. Cá thể cái phải mất bốn năm và cá thể đực mất 5 năm để hoàn thiện quá trình phát triển sừng. Trâu lúc mới sinh có những đốt sừng nhỏ, mọc thẳng trong 6 đến 9 tháng đầu. Vào tuổi đầu tiên của chúng, cặp sừng đã phát triển thành một đường cong. Khi cá thể đực lớn lên, sừng của chúng dày lên ở gốc để cuối cùng liên kết với nhau, tạo thành trùm thống nhất ở đỉnh đầu. Khi được hai tuổi, sừng sắp gặp nhau ở trung tâm và phần gai xương phát triển.
Ở độ tuổi từ 3 đến 5, những cá thể đực dưới tuổi trưởng thành gần như đã hoàn thiện, vẫn còn một ít lông và da ở trung tâm. Ở tuổi này sừng vẫn còn lớp ngoài nhạt màu. Trâu rừng châu Phi có trọng lượng tối đa khoảng 1.000kg.
Trâu rừng châu Phi là loài trâu có tuổi thọ cao nhất: 30 năm. Đặc biệt, có thể khẳng định trâu rừng châu Phi có tính cộng đồng rất cao: sống tập trung thành đàn đến hơn 1.000 cá thể. Khi sống bầy đàn, trâu rừng châu Phi tạo thành hai kiểu đàn: đàn lớn, hỗn hợp đực-cái và nhiều lứa tuổi (đàn sinh sản) và đàn độc thân gồm toàn cá thể đực.
Ở các đàn này, con đầu đàn thường ngẩng cao đầu và quan sát. Tập tính này giúp trâu rừng châu Phi tránh được mối đe doạ từ các cuộc tấn công của sư tử, báo, linh cẩu… Ngược lại, trâu rừng châu Phi lại chung sống thân thiện với ngựa vằn và linh dương đầu bò.
Tập tính sống bầy đàn của trâu rừng châu Phi cũng là một vẻ đẹp của thiên nhiên châu Phi: hàng ngàn cá thể trâu rừng châu Phi di cư đi tìm nguồn nước và thức ăn đã góp phần làm nên những cảnh quan sống động, thu hút sự theo dõi của hàng triệu người.
Trâu rừng châu Phi có các giác quan nhạy bén đến phát hiện ra các kẻ thù thông qua việc phối hợp các dấu. hiệu thị giác, khứu giác và thính giác. Đặc biệt, trâu rừng châu Phi có khả năng phát hiện sư tử ở khoảng cách 1km. Giống như các loài trâu khác, trâu rừng châu Phi thường xuyên gặm cỏ và dành phần lớn thời gian để kiếm ăn.
Trâu rừng châu Phi đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp không khói ở lục địa đen. Đây là một trong “Big Five” – năm loài thú lớn thường xuyên được săn bắn gồm sư tử, báo hoa mai, tê giác, voi và trâu rừng châu Phi. Điều này mang lại giá trị kinh tế rất lớn với hàng trăm triệu USD cho các quốc gia châu Phi từ hoạt động săn bắn giải trí. Tuy nhiên, trâu rừng châu Phi cũng được coi là vật trung gian truyền bệnh cho các đàn gia súc và sâu bệnh hại cây trồng.